Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này: https://dspace.ctu.edu.vn/jspui/handle/123456789/10945
Toàn bộ biểu ghi siêu dữ liệu
Trường DCGiá trị Ngôn ngữ
dc.contributor.advisorLý, Văn Khánh-
dc.contributor.authorLâm, Tuấn Huy-
dc.date.accessioned2019-08-07T08:35:05Z-
dc.date.available2019-08-07T08:35:05Z-
dc.date.issued2019-
dc.identifier.otherLV6305,6306/2019-
dc.identifier.urihttp://dspace.ctu.edu.vn:8080//jspui/handle/123456789/10945-
dc.description9 tr.vi_VN
dc.description.abstractNghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả việc áp dụng công nghệ biofoc trong ương tôm sú giống. Thí nghiệm được thực hiện ở 3 tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang; mỗi tỉnh bố trí 3 bể ương.Tôm được ương theo công nghệ biofloc (C:N = 10:1 và sử dụng mật rỉ đường để bổ sung nguồn carbon), mật độ ương 600 con/m2. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố môi trường đều nằm trong khoảng thích hợp cho tôm sú phát triển. Sau 21 ngày ương, tốc độ tăng trưởng của tôm về khối lượng và chiều dài tốt nhất ở tỉnh Kiên Giang, giữa các tỉnh không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỉ lệ sống dao động từ 81,7-91,1 %, cao nhất là ở Cà Mau và thấp nhất là ở Bạc Liêu. Sinh khối tôm ở Cà Mau cao nhất 547 con/m2. Tuy nhiên, tỷ lệ sống và sinh khối ở các tỉnh khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Kết quả thí nghiệm cho thấy, nuôi tôm sú ứng dụng công nghệ biofloc trên bể lót bạt cho hiệu quả tốt.vi_VN
dc.language.isovivi_VN
dc.publisherTrường Đại Học Cần Thơvi_VN
dc.subjectNuôi trồng thủy sảnvi_VN
dc.titleThực nghiệm ương tôm sú (Penaeus monodon) giống trên bể lót bạc theo công nghệ biofloc ở tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giangvi_VN
dc.typeThesisvi_VN
Bộ sưu tập: Trường Thủy sản

Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin Mô tả Kích thước Định dạng  
_file_
  Giới hạn truy cập
276.22 kBAdobe PDF
Your IP: 216.73.216.26


Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.