Please use this identifier to cite or link to this item:
https://dspace.ctu.edu.vn/jspui/handle/123456789/118671
Title: | Hiện trạng nuôi cá rô phi Oreochromis niloticus (Linnaeus, 1758) kết hợp với tôm sú (Penaeus monodon) ở tỉnh Cà Mau |
Authors: | Võ, Thành Toàn Trần, Văn Đại |
Keywords: | Quản lý nguồn lợi thuỷ sản |
Issue Date: | 2025 |
Publisher: | Trường Đại Học Cần Thơ |
Abstract: | Đề tài nghiên cứu “Hiện trạng nuôi cá rô phi Oreochromis niloticus (Linnaeus, 1758) kết hợp với tôm sú (Penaeus monodon) ở tỉnh Cà Mau” được thực hiện nhằm khảo sát được hiện trạng nuôi cá rô phi ở mô hình nuôi ghép với tôm sú, qua đó đánh giá được khả năng thích ứng với điều kiện môi trường sống ở vùng ven biển tỉnh Cà Mau. Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2025 tại các hộ nuôi mô hình kết hợp cá rô phi với tôm sú (Penaeus monodon) trong ao vuông quảng canh cải tiến, thông qua việc phỏng vấn trực tiếp 45 hộ nuôi ở 3 huyện Thới Bình, Trần Văn Thời và Cái Nước tại tỉnh Cà Mau tỉnh bằng bảng câu hỏi soạn sẵn. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm khảo sát được hiện trạng nuôi cá rô phi ở các mô hình khác nhau, qua đó đánh giá được khả năng thích ứng với điều kiện môi trường sống ở vùng ven biển tỉnh Cà Mau. Kết quả khảo sát mô hình nuôi quảng canh cải tiến kết hợp cá rô phi và tôm sú tại ba huyện Thới Bình, Trần Văn Thời và Cái Nước (tỉnh Cà Mau) cho thấy, diện tích ao nuôi trung bình đạt 13.356,6±7.167,3 m²/hộ, với độ sâu mực nước duy trì ở mức ổn định 1,3±0,1 m. Mật độ thả giống tôm sú trung bình là 7±1 con/m², thời gian nuôi kéo dài khoảng 3,3±0,5 tháng/vụ và tỷ lệ sống của tôm đạt mức tương đối cao là 57±0,6%. Năng suất bình quân của cá rô phi trong mô hình đạt 0,034±0,007 kg/m²/vụ, trong khi tôm sú đạt 0,050±0,004 kg/m²/vụ. Tổng doanh thu bình quân của mô hình đạt 85.171,0±451,7 nghìn đồng/m²/vụ, với lợi nhuận ròng trung bình là 64.213,1±348,2 nghìn đồng/m²/vụ. Giá bán trung bình của tôm sú là 145,0±4,1 nghìn đồng/kg, cao hơn nhiều so với giá thành sản xuất (19.083±3,8 nghìn đồng/kg), cho thấy tôm sú là đối tượng mang lại hiệu quả kinh tế chính. Ngược lại, cá rô phi tuy không mang lại giá trị kinh tế cao (giá bán 8.883±2,3 nghìn đồng/kg so với giá thành 21,1±8,1 nghìn đồng/kg), nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện chất lượng nước. Tỷ suất lợi nhuận trung bình của toàn mô hình đạt mức 0,75%, đặc biệt không ghi nhận hộ nào thua lỗ trong kỳ khảo sát. Mô hình đã tận dụng hiệu quả nguồn tài nguyên sẵn có như ao đất, nước tự nhiên và lao động gia đình để tối ưu hóa chi phí đầu vào, đồng thời hạn chế được rủi ro dịch bệnh thường gặp ở mô hình nuôi đơn loài. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất vẫn là sự biến động của giá thị trường và vấn đề ô nhiễm nguồn nước cục bộ, đòi hỏi cần có sự liên kết trong sản xuất và tiêu thụ để đảm bảo phát triển ổn định, bền vững trong thời gian tới. |
Description: | 16tr. |
URI: | https://dspace.ctu.edu.vn/jspui/handle/123456789/118671 |
Appears in Collections: | Trường Thủy sản |
Files in This Item:
File | Description | Size | Format | |
---|---|---|---|---|
_file_ Restricted Access | 686.92 kB | Adobe PDF | ||
Your IP: 216.73.216.143 |
Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.