Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
https://dspace.ctu.edu.vn/jspui/handle/123456789/87250
Nhan đề: | Căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng trong chế độ tài sản theo luật định |
Tác giả: | Trần, Khắc Qui Hà, Thị Ngọc Huyền B1902874 |
Từ khoá: | Luật Tư Pháp |
Năm xuất bản: | 2023 |
Tóm tắt: | Đề tài luận văn trình bày lý luận chung về tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và quy định về căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng trong chế độ tài sản theo luật định, chỉ ra một số bất cập trong quy định của pháp luật và những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về căn cứ xác định tài sản chung. Luận văn bao gồm: Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và nội dung. Phần nội dung thì có ba chương: Chương 1: Khái quát về căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng trong chế độ tài sản theo luật định. Chương 2: Quy định pháp luật về căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng trong chế độ tài sản theo luật định. Chương 3: Thực tiễn áp dụng căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng trong chế độ tài sản theo luật định và hướng hoàn thiện. Qua quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả có tìm ra một số bất cập và giải pháp. Một ví dụ điển hình: Bất cập trong quy định về căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng là tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân.Tài sản để xác định là tài sản chung trong trường hợp này phải là tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân, tức là sau khi họ đã trở thành vợ chồng. Nếu một tài sản mà người vợ hoặc người chồng có được trước khi họ trở thành vợ chồng, là của riêng người đó . Tuy nhiên chưa có điều luật nào quy định cụ thể “thế nào là tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân”. Đây là thời điểm mà vợ, chồng thực hiện giao dịch hay thời điểm giao dịch được hoàn thành. Ngoài ra còn có sự bất hợp lý về các khoản tiền thưởng khi phát sinh trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung. Tác giả có đề xuất, pháp luật nên đơn giả hóa và quy định ngắn gọn: “Tài sản chung của vợ chồng là tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”. Không cần xét xem là thu nhập, tiền thưởng của ai, thu nhập phát sinh trước hay sau hôn nhân, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản của ai, mà chỉ cần quan tâm là tài sản đó, thu nhập đó có được vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung hay không thôi. Quy định này sẽ làm cho điều luật ngắn gọn, dễ hiểu và dễ thực hiện. Điều này vừa có thể bao quát các nội hàm quy định cũ muốn đem lại, vừa tạo điều kiện cho vợ chồng thoải mái thỏa thuận, tôn trọng quyền định đoạt của riêng mỗi người với công sức tạo ra thu nhập, tài sản. Chưa dừng lại ở đó, đề xuất này còn tránh được khó khăn khi giải quyết tranh chấp chia tài sản, bởi vì khi cho vợ chồng thỏa thuận tài sản chung, thì đã dựa vào ý kiến và quyết định của chính bản thân họ, thì khi chia tài sản chung ta chỉ cần chia đôi mà không cần xét đến yếu tố công sức đóng góp của ai nhiều hơn, vì khi đã xác định là tài sản chung thì hai bên đã chấp nhận sử dụng tài sản chung, không phân biệt giữa vợ và chồng. |
Mô tả: | 58 tr |
Định danh: | https://dspace.ctu.edu.vn/jspui/handle/123456789/87250 |
Bộ sưu tập: | Khoa Luật |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
_file_ Giới hạn truy cập | 1.68 MB | Adobe PDF | ||
Your IP: 3.137.170.38 |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.