Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
https://dspace.ctu.edu.vn/jspui/handle/123456789/47340
Nhan đề: | Tăng trưởng của cá bột trê vàng (Clarias macrocephalus) G2 lai giữa hai nguồn cá tự nhiên và cá nuôi |
Tác giả: | Dương, Thúy Yên Lê, Thị Huyền Hảo |
Từ khoá: | Nuôi Trồng Thủy Sản |
Năm xuất bản: | 2020 |
Nhà xuất bản: | Trường Đại Học Cần Thơ |
Tóm tắt: | Nghiên cứu nhằm so sánh tăng trưởng của cá bột trê vàng (Clarias macrocephalus) thế hệ thứ hai (G2) của con lai từ hai nguồn cá nuôi Cần Thơ (CT) và cá tự nhiên Cà Mau (CM) với thế hệ G2 của từng nguồn cá. Bốn nghiệm thức cá bột trê vàng (CMCT, CTCM, CT và CM) được ương trong bể (50L) với mật độ 20 con/L. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 5 lần. Cá được cho ăn bằng thức ăn tự nhiên (Moina) từ 3 đến 10 ngày tuổi, sau đó chuyển qua cho ăn moina kết hợp thức ăn công nghiệp dạng chìm ( từ 10 đến 15 ngày tuổi) và cho ăn thức ăn công nghiệp dạng nổi từ 15 ngày tuổi. Kết quả sau 40 ngày ương cho thấy chiều dài và khối lượng của cá ở các nghiệm thức khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05), dao động tương ứng từ 3,50 – 4,51 cm và 0,50 – 1,05 g. Thế hệ G2 của con lai CTCM tăng trưởng tốt nhất (4,51 cm và 1,05 g); tiếp theo là cá CT (4,08 cm và 0,75 g) và CMCT (3,96 cm và 0,74 g); thấp nhất là G2 của CM (3,50 cm và 0,50 g). Sau 40 ngày ương, tỉ lệ sống của cá trê vàng ở các nghiệm thức (dao động từ 29,5% đến 36,4%) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Như vậy, con lai G2 đã thể hiện tăng trưởng tốt, vượt trội hơn so với thế hệ G2 của cá tự nhiên CM và bằng (ở CMCT) hoặc tốt hơn (ở CTCM) so với cá nuôi CT. |
Mô tả: | 15tr. |
Định danh: | https://dspace.ctu.edu.vn/jspui/handle/123456789/47340 |
Bộ sưu tập: | Trường Thủy sản |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
_file_ Giới hạn truy cập | 596.26 kB | Adobe PDF | ||
Your IP: 18.188.40.207 |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.